Sốt vẹt là căn bệnh được phát hiện đầu tiên vào cuối thế kỷ thứ 19, lúc này vật chủ nhiễm bệnh là những con vẹt. Tuy nhiên với mức độ nguy hiểm, chúng có thể lây truyền sang người. Theo các nghiên cứu cho thấy, có khoảng 130 loài chim đã nhiễm bệnh, đặc biệt là những loài đã thuần hóa để chăn nuôi hộ gia đình như gà, vịt. Bệnh chủ yếu phát ra từ gia cầm non với triệu chứng đặc trưng là viêm mắt hoặc tiêu chảy. Một số gia cầm lớn thường nhiễm bệnh ở thể ẩn tính. Trong bảng tin hôm nay, sẽ thông tin đến bạn về nguyên nhân, triệu chứng cũng như cách phòng bệnh hiệu quả sốt vẹt trên loài vịt, để bà con cùng nắm bắt.
Nguyên nhân mắc bệnh sốt vẹt trên vịt
Bệnh do vi khuẩn Chlamydia có kích thước rất nhỏ (nhỏ hơn virus và lớn hơn vi khuẩn) ký sinh bên trong tế bào gây nên. Vi khuẩn chỉ sản sinh trong tế bào sống (phôi gà, chuột), vi khuẩn truyền qua trứng. Vi khuẩn thường gây bệnh ở gia cầm con. Vi khuẩn có sức đề kháng kém, ở nhiệt độ bình thường nó có thể tồn tại 1-5 tuần. Ở nhiệt độ 56⁰C vi khuẩn bị tiêu diệt trong 5 phút. Các thuốc sát trùng như Phenol 0,5% hoặc Formalin 0,1% đều tiêu diệt được vi khuẩn trong 10 phút.

Bệnh sốt vẹt đã được báo cáo ở các nước bao gồm Argentina, Úc và Anh. Nó có thể được tìm thấy ở bất cứ nơi nào chim được nuôi làm thú cưng hoặc trong các quần thể nuôi nhốt lớn (chẳng hạn như trang trại gia cầm). Nó phổ biến hơn trong môi trường nhiệt đới.
Con đường lây truyền
Hầu hết các loại gia cầm đều bị mẫn cảm nhiễm. Bệnh chủ yếu phát ra ở gia cầm, thủy cầm non với triệu chứng viêm mắt và tiêu chảy. Bệnh lây nhiễm sang cả người, đặc biệt ở những người chế biến lông vũ, chế biến vịt xuất khẩu và cả những cán bộ thú ý khi làm công tác tiêm phòng, kiểm soát sát sinh và hướng dẫn chế biến thịt và lông vịt xuất khẩu. Ở gia cầm lớn truyền lây qua trứng từ mẹ sang hoặc từ môi trường chuồng trại nhiễm mầm bệnh vào vỏ trứng. Từ vỏ trứng mầm bệnh vào phôi.

Lây nhiễm do tiếp xúc giữa con bệnh và con khỏe (do vi khuẩn tồn tại trong phân, dịch mũi, dịch rỉ viêm ở kết mạc mắt thải vào thức ăn, nước uống trong chuồng trại). Lây nhiễm qua da bị sây sát do vật cứng ở chuồng trại hay do rận, rệp, mạt và muỗi cắn.
Triệu chứng thường gặp
- Sưng huyết đỏ ở phổi.
- Xoang ngực cũng như xoang bao tim có dịch rỉ viêm fibrin màu vàng.
- Túi khí viêm chứa nhiều dịch rỉ fibrin.
- Lách sưng to, mềm.
- Trên gan có phủ lớp màng fibrin.
- Cơ ngực bị teo, viêm khớp móng chân, vịt già trên gan có những đám hoại tử trắng với kích thước khác nhau.
- Vịt yếu và tiêu chảy, phân màu xanh xám.
- Tỷ lệ chết có thể tới 30%.
Bệnh tích và cách chẩn đoán
Mổ khám vịt bệnh thấy có các dấu hiệu sau: Sưng huyết đỏ ở phổi, xoang ngực cũng như xoang bao tim có dịch rỉ viêm fibrin màu vàng. Túi khí viêm chứa nhiều dịch rỉ fibrin, lách sưng to, mềm. Gan có những đám hoại tử trắng với kích thước khác nhau.
Dựa trên triệu chứng lâm sàng và dịch tễ học. Lấy các mẫu bệnh phẩm gan, lách, tim nhuộm Giemas. Khi đó sẽ thấy những đám vi khuẩn trong tế bào. Làm phản ứng kết hợp bổ thể (CFT) để phát hiện kháng thể trong huyết thanh những gia cầm khỏi bệnh. Kiểm tra kháng thể huỳnh quang từ gỉ mắt bị viêm kết mạc là một phương pháp chuẩn đoán nhanh. Lưu ý, cần chuẩn đoán phân biệt với các bệnh Salmonellosis, Panatipestifer cũng gây tiêu chảy nhưng không viêm mắt.
Cách phòng bệnh hiệu quả
– Tránh nuôi chung gia cầm nhỏ với gia cầm lớn (vì gia cầm già thường mang mầm bệnh và truyền lây cho gia cầm con).
– Phải làm công tác vệ sinh thích hợp sau mỗi ở dịch.
– Dùng kháng sinh trộn vào thức ăn hay nước uống để phòng ngừa. Có thể tham khảo một trong các loại kháng sinh sau:

- Quino 20% Gold: 100ml/ 2 tấnTT/ngày
- Pneutec: 100g/2 tấnTT/ngày
- Flumec 200: 100g/1 tấnTT/ngày
- Tylosin: 100g/1 tấnTT/ngày
- Az. Doxycoli 50/50: 1kg/20 tấnTT/ngày
(Liệu trình 3 – 5 ngày liên tục)
Phác đồ trị bệnh
Khi phát hiện gia cầm bị bệnh, sử dụng một trong các loại thuốc kháng sinh tổng hợp để tiêm như Chlotetrasol, Tylo-PC gold… để điều trị bệnh. Liều lượng tham khảo theo hướng dẫn của nhà sản xuất ghi trên bao bì. Bà con lưu ý rằng trong giai đoạn vịt, ngan con hay mẫn cảm nhất với bệnh là từ 10 – 18 ngày. Nên có thể cho uống phòng các phác đồ trị bệnh hiệu quả trên vào các ngày mẫn cảm sẽ bảo vệ đàn vịt, ngan được phát triển và tăng trọng tốt nhất.
Qua quá trình thực tế nhận thấy các phác đồ trên còn có hiệu quả rất cao đối với cả bệnh thương hàn, E.coli, tụ huyết trùng trên vịt, ngan…Hy vọng với những chia sẻ từ kiến thức và kinh nghiệm điều trị bệnh thực tế trên sẽ giúp ích cho bà con chăn nuôi trong việc chăm sóc và phòng trị bệnh cho đàn vật nuôi của mình.